Nội dung bài viết
1. Thiếu Đăng Ký Kinh Doanh và Khó Quản Lý
- Vấn đề đăng ký kinh doanh: Phần lớn các tổ chức và cá nhân kinh doanh TMĐT tại Việt Nam không thực hiện việc đăng ký kinh doanh chính thức. Điều này khiến cơ quan quản lý thuế gặp khó khăn trong việc theo dõi và xác định đối tượng thu thuế.
- Hoạt động quảng cáo và bán hàng qua mạng xã hội: Các nền tảng như Google, Facebook, và Zalo đang ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm thuế từ các công ty đa quốc gia như Google, Yahoo… thường không được kê khai đầy đủ, hoặc kê khai sai về doanh thu thuế GTGT và thuế nhà thầu.
- Bùng nổ bán hàng qua mạng xã hội: Hoạt động bán hàng qua mạng xã hội đang phát triển nhanh chóng, nhưng cơ quan quản lý chưa có chế tài đủ mạnh để quản lý thuế đối với các giao dịch này.
2. Sử Dụng Tài Khoản Cá Nhân và Thanh Toán Quốc Tế
- Thanh toán quốc tế không kê khai: Nhiều tổ chức và cá nhân sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán cho các dịch vụ nước ngoài mà không kê khai doanh thu. Điều này đặc biệt nghiêm trọng đối với các tổ chức cá nhân quảng bá sản phẩm hoặc bán hàng qua website mà không xuất hóa đơn hoặc kê khai doanh thu thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).
3. Khó Khăn Trong Xác Định Loại Hình Kinh Doanh
- Danh mục ngành nghề chưa đầy đủ: Một số hoạt động TMĐT hiện chưa được đưa vào danh mục ngành nghề kinh doanh, và một số loại hình hoạt động TMĐT vẫn đang trong tình trạng tranh cãi về việc thuộc loại hình kinh doanh nào. Điều này gây khó khăn trong việc xác định bản chất và loại hình để áp dụng mức thuế phù hợp.
- Giao dịch tiền ảo và vật phẩm ảo: Các giao dịch mua bán tiền ảo, chuyển nhượng vật phẩm ảo trong game, hoặc cho thuê ứng dụng quảng cáo thường không được kê khai đầy đủ, mặc dù có doanh thu lớn.
4. Khó Khăn Trong Xác Định Doanh Thu và Thu Nhập
- Thiếu công cụ kiểm soát: Hiện tại, công tác quản lý TMĐT chưa có đủ công cụ để theo dõi lượng hàng hóa và doanh thu phát sinh từ các hoạt động TMĐT. Việc xác định doanh thu chủ yếu dựa vào hóa đơn bán hàng và nội dung giao dịch thanh toán.
- Hóa đơn và phương thức thanh toán: Nhiều đối tượng kinh doanh TMĐT không xuất hóa đơn hoặc xuất hóa đơn không đúng thực tế. Phương thức thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt hoặc qua tài khoản ngân hàng không đăng ký với cơ quan thuế làm tăng thêm khó khăn trong việc theo dõi và quản lý.
- Thiếu quy định về trách nhiệm ngân hàng và nhà cung cấp dịch vụ: Pháp luật hiện chưa quy định rõ trách nhiệm của ngân hàng trong việc cung cấp thông tin giao dịch thanh toán TMĐT, hoặc trách nhiệm của các đơn vị cho thuê máy chủ trong việc cung cấp thông tin về các doanh nghiệp hoạt động TMĐT.
5. Khó Khăn Trong Quản Lý Giao Dịch Xuyên Biên Giới
- Dịch vụ xuyên biên giới: Các dịch vụ như đặt phòng khách sạn hoặc dịch vụ du lịch đăng ký trực tuyến thường xuyên có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài. Khách hàng trả tiền trực tiếp cho doanh nghiệp nước ngoài, sau đó doanh nghiệp này chuyển tiền cho khách sạn hoặc cơ sở lưu trú tại Việt Nam. Điều này gây khó khăn trong việc xác định doanh thu và tính thuế cho các doanh nghiệp nước ngoài.
6. Hạn Chế trong Phối Hợp Quản Lý
- Phối hợp giữa các cơ quan: Mặc dù đã có một số nỗ lực để tăng cường quản lý thuế đối với TMĐT, sự phối hợp giữa ngành Thuế và các bộ, ngành liên quan vẫn còn hạn chế. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát và thu thuế từ hoạt động TMĐT, làm gia tăng nguy cơ thất thu ngân sách nhà nước.
Tóm Tắt
Các hạn chế trong quản lý thuế đối với TMĐT tại Việt Nam bao gồm khó khăn trong việc theo dõi và quản lý các đối tượng kinh doanh chưa đăng ký, việc kê khai thuế không đầy đủ hoặc sai lệch, sự không rõ ràng về loại hình kinh doanh và ngành nghề, cũng như những khó khăn trong việc xác định doanh thu và thu nhập từ các giao dịch TMĐT, đặc biệt là giao dịch xuyên biên giới. Để khắc phục những hạn chế này, cần có sự cải cách trong quy định pháp luật, tăng cường công cụ quản lý, và cải thiện sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý.